Cây bướm bạc còn gọi là cây bươm bướm, cây hoa bướm, bứa chừa (Thái), có tên khoa học Mussaenda pubescens Ait.f., thuộc họ Cà-phê (Rubiaceae).

Bướm bạc là loại cây nhỏ, mọc trườn, dài 1-2m. Cành non có lông mịn. Lá nguyên, mọc đối, mặt trên có màu xanh lục sẫm, mặt dưới màu lục nhạt và đôi khi có lông. Hoa màu vàng, có lá đài phát triển thành bản màu trắng, mềm, gân nổi rõ, có cuống dài. Cây mọc hoang ở đồi núi, ven rừng, được trồng làm cảnh và làm thuốc. Người ta thường dùng thân và rễ để làm thuốc, thu hái quanh năm. Lá thường dùng tươi, thân rửa sạch, phơi hoặc sấy khô để dùng.

Theo Đông y, bướm bạc có vị hơi ngọt, tính mát, tác dụng thanh nhiệt, giải biểu, hòa lý, khai uất, lương huyết, tiêu viêm. Thường được dùng chữa cảm phong nhiệt, say nắng, viêm khí quản, viêm hầu họng, sưng amidan, viêm thận phù thũng, viêm ruột tiêu chảy, viêm mủ da, tử cung xuất huyết, rắn cắn. Ngày dùng 16-30g khô, sắc uống.

Dùng ngoài không kể liều lượng, rửa sạch, giã nát, đắp lên chỗ đau.

Người Trung Quốc gọi bướm bạc là ngọc diệp kim hoa (lá màu trắng, hoa màu vàng), dùng chữa tê thấp, ho, giảm đau, khí hư bạch đới.

Sau đây là một số bài thuốc có dùng bướm bạc:

– Phòng ngừa say nắng: Bướm bạc 50-100g, nấu nước để uống thay trà trong những ngày nắng nóng.

– Chữa cảm sốt do phong nhiệt, say nắng: Thân cây bướm bạc 12-16g, lá cây ngũ trảo 10-12g, bạc hà 3-5g. Tất cả sấy khô (hoặc sao nhẹ cho khô), tán dập, ngâm nước sôi 500ml, sau 5-10 phút để nguội, uống từng ngụm. Hoặc dùng: Rễ bướm bạc 30g, hoắc hương (hoặc hương nhu) 10g, kinh giới 10g; nấu với 500ml nước, sắc còn 400ml, chia 2 lần uống trước bữa ăn.

– Sốt, viêm họng do nhiệt: Rễ bướm bạc (hoặc thân cây) 30g, củ rẻ quạt 2g, húng chanh 10g. Nấu với 500ml nước, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống trước bữa ăn. Hoặc dùng: Rễ (hoặc thân cây) bướm bạc 40g, trái khế (khô) 20g. Sắc uống như trên.

– Tiểu khó, tiểu ít, ho khan do nhiệt: Hoa bướm bạc 12-20g, mã đề 10g, rễ cỏ tranh 10g, cành, lá kim ngân hoa 12g. Nấu với 500ml nước, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống trước bữa ăn.

– Đau nhức các khớp tay chân do thấp nhiệt (ẩm và nóng), khí hư bạch đới: Rễ bướm bạc 12-20g, lá lốt 10-12g, cỏ xước 10-12g, cành dâu 12-16g, mã đề 8g. Nấu với 650ml nước, sắc còn 400ml, chia 2 lần uống trước bữa ăn.

Tạp chí Sức Khỏe, khoe24h, Cây bướm bạc, ngọc diệp kim hoa, Sốt viêm họng, Tiểu khó, tiểu ít, Bướm bạc Rehder, Bướm bạc trà, sưng amidan, trẻ viêm não B, Bướm bạc Campuchia, Bướm bạc lá, Bướm bạc quả nang
Cây bướm bạc Mussaenda pubescens Ait.f. (Ảnh internet)

Ngoài cây bướm bạc nói trên, người ta còn dùng nhiều loài Mussaenda khác, thuộc họ Cà-phê, cũng mang tên bướm bạc, như:

Bướm bạc Campuchia (Mussaenda cambodiana Pierre ex Pit.): Hoa có vị ngọt, tính mát; có tác dụng lợi tiểu, trị sốt. Người ta dùng hoa làm thuốc trị ho, hen, sốt rét có chu kỳ, đau thắt lưng. Dùng ngoài để chữa các bệnh về da. Lá cũng dùng làm trà uống giải nhiệt.

Bướm bạc lá (Mussaenda frondosa L.): Hoa của cây bướm bạc lá có tác dụng bổ phổi và lợi tiểu. Dùng trị suyễn, sốt rét định kỳ và thủy thũng. Dùng ngoài để rửa các vết thương và mụn nhọt.

Bướm bạc quả nang (Mussaenda dehiscens Craib): Rễ, thân và vỏ có vị ngọt nhạt, tính mát; có tác dụng thanh nhiệt giải độc, tiêu viêm, lợi niệu. Rễ, thân cũng được dùng như các loài khác chữa bệnh ôn nhiệt, trong ngoài đều nóng, các khiếu không thông. Vỏ dùng chế nước uống cho trẻ em bị bệnh đậu mùa.

Sách Từ điển cây thuốc Việt Nam của Tiến sĩ Võ Văn Chi có nêu một số đơn thuốc kinh nghiệm do Lương y Lê Trần Đức giới thiệu:

– Chữa bệnh sốt mùa hè đến giai đoạn hôn mê khô khát, táo bón, đái sẻn, tân dịch khô kiệt, dùng rễ bươm bướm 60g, hành tăm 20g, đều sao vàng. Sắc uống một thang thì đại tiểu tiện thông lợi, sốt lùi, nuốt được, uống hết thang thứ hai thì tỉnh, sau khi uống ba thang thì hết sốt, ăn uống được.

– Chữa trẻ viêm não B (viêm não Nhật Bản), sốt cao, khô khát, hôn mê, dùng rễ bươm bướm 30g, quả hòe hay hoa hòe 15g, huyền sâm, sinh địa, mạch môn, ngưu tất, hạt muồng (sao), dành dành, mỗi vị 12g. Sắc uống. Đồng thời châm chính giữa lưỡi (chỗ 1/3 từ cuống lưỡi, 2/3 từ chót lưỡi), sâu 3mm cho chảy máu vài giọt.

Châm 2 ngày/lần với uống thuốc mỗi ngày một thang. Sau 5-7 ngày có kết quả, bệnh nhi nói được.

– Chữa sưng amidan, ho sốt: Rễ bươm bướm 30g, huyền sâm 20g, rễ cây bọ mẩy 10g, sắc uống.

– Chữa lao nhiệt nóng âm trong xương: Rễ bươm bướm một nắm sắc uống (theo sách Nam dược thần hiệu của Lương y Tuệ Tĩnh).

• Bướm bạc Rehder (Mussaenda rehderiana Hutch.): Lá và hoa được dùng làm thuốc. Lá giã ra trị sốt. Hoa được sử dụng ở Campuchia làm thuốc lợi tiểu và trị hen.

• Bướm bạc trà (Mussaenda theifera Pierre ex Pit.): Người ta dùng quả chế nước uống thay trà để trị sốt.

Theo khoe24h